🐕🦺 Nghệ Thuật Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ
Cả bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc Tử vừa mang vẻ đẹp rất thực với tất cả nét trong sáng, tinh khôi, thơ mộng đặc trưng cho xứ Huế nhưng cũng rất mơ hồ, hư ảo. Bài thơ đã thể hiện nỗi niềm thiết tha gắn bó với đời, thiết tha sống đến khắc khoải và đau đớn của Hàn Mặc Tử trong những ngày cuối đời ở trại phong Quy Nhơn.
Khi phân tích khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta thấy bằng nghệ thuật liệt kê, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh về cảnh thiên nhiên thôn Vĩ với nắng hàng cau, vườn mướt xanh như ngọc, lá trúc, có mặt chữ điền. Nhưng đó không phải là thiên nhiên vắng lặng mà đó
NGHỆ THUẬT BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ DẠ. admin 19/05/2022. Hàn mang Tử là 1 trong hiện tượng thơ lạ mắt vào số 1 của phong trào Thơ mới. Đọc thơ Hàn khoác Tử ta dễ dàng bắt gặp một chổ chính giữa hồn khẩn thiết yêu cuộc sống, yêu thiên cảnh và bé người. Đó còn là một
Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh phong cảnh thật đẹp về thiên nhiên xứ Huế, từ đó thể hiện tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt. 1 Bình Luận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) xuất hiện trên thi đàn văn học đã tạo ra một bất ngờ lớn nhưng sự
Phân tích 2 khổ thơ đầu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bước vào thế giới nghệ thuật của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, chúng ta như lạc bước vào khung cảnh thôn Vĩ dân dã mà tươi sáng, trong trẻo trong nắng sớm. Khám phá bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ, hôm nay chúng tôi sẽ
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" có thể xem là một chủ âm trong cây đàn thơ muôn điệu của Hàn Mặc Tử, là một thi phẩm xuất sắc của thi đàn Thơ mới. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của bài thơ sẽ giúp người đọc hoá giải được phần nào lòng yêu đời, yêu cuộc sống
Thơ của ông mang nhiều sắc thái khác nhau, có những vẫn thơ thấm đẫm nước mắt, nhưng cũng có những vần thơ vô cùng trong trẻo, tinh khiết. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử về chủ đề tình yêu. Bài thơ được sáng tác khi ông đã mắc bệnh nặng, vì thế mang một vẻ đượm buồn sâu sắc.
Bố cục bài thơ. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử được chia làm ba phần, tương ứng với ba khổ thơ của bài: Phần 1: Khổ thơ thứ nhất: Thiên nhiên xanh mát của thôn Vĩ Dạ hiện lên trong tâm tưởng của thi nhân. Phần 2: Khổ thơ thứ hai: Vẻ đẹp của đêm trăng xứ Huế, và dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình.
j7lEtH. “Ai mua trăng tôi bán trăng cho Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ Ai mua trăng tôi bán trăng cho Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”. Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời rao trăng” nổi tiếng ấy của một nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử – một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Có lẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ. “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả “Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm. Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử “Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay” Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng” “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? ” Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ. Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với “sinh, lão, bệnh, tử”. Tác giả đã cố níu kéo, cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Điều đặc biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn miêu tả rất thực về cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi nên tác giả rất sợ điều đó. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi nhân – người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn. Bài thơ bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn. Thật vậy, âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”. NguyenHuuAnhTuan – Trang This entry was posted on 12/08/2011, 817 pm and is filed under Đời sống xã hội. You can follow any responses to this entry through RSS You can leave a response, or trackback from your own site.
ĐÂY THÔN VĨ DẠTÁC GiẢLà nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới.Hồn thơ hết sức phức tạp,đầy bí ẩn nhưng vẫn thể hiện rõmột tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời.Đem đến cho thơ mới những sáng tạo độc đáo,những hìnhtượng,ngôn từ đầy ấn tượng,gợi cảm giác liên tưởng và suytương dồi với bút pháp lãng mạn,nhà thơ còn sửdụng cả bút pháp tượng trưng,yếu tố siêu XỨ-In trong tập THƠ ĐIÊN Đau thương,sáng tác năm DUNG-Bức tranh phong cảnh thiên nhiên,con người,tình người xứ buồn sâu kín trong dự cảm hạnh phúc chia xa và lòng thiết tha với cuộc đời của nhà HỨNG-Dòng hồi tưởng về cảnh đẹp xứ Huế,con người xứ xúc về mối tình với cô gái Hoàng Thị Kim Cúc– một cô gái Huế đài các, đoan trang, kín đáo đến bí mặc cảm về bản CẢNH SÁNG TÁC-Hàn Mặc Tử có yêu thầm một cô gái quê ở Vỹ 1938,nhà thơ tặng cho thiếu nữ ấy tập thơ "Gái quê",sau đó,cô gái gửi chothi sĩ một bức ảnh phong cảnh Huế với lời hỏi thăm,động viên thi sĩ mau bình phục ==> Gợi cảm hứng cho thi sĩ làm thơ. Tình cảmbí ẩn của Hoàng Cúc khiến HMT băn khoăn, xúc động. Tấm bưu thiếp phong cảnh sông nước đã đánh thức những kỉ niệm về thônVỹ,vê xứ Huế,và cả mối tình đơn phương của thi sĩ đối với Hoàng TÍCH1. Khổ 1- Câu mở đầu“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”+ câu hỏi tu từ Mang sắc thái tự nhiên, thân mật vừa hỏi vừa trách nhẹ nhàng, vừa mời gọi thathiết của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ.“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” Hình ảnh “nắng hàng cau – nắng mới lên”->> Gợi lên cái nắng ấm áp, rực rỡ, trong trrẻo, tinh khôi trong buổibình minh, làm bừng sáng cả không gian hồi tưởng.“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”-Vườn ai mướt quá như lời cảm thán mang sắc thái ngợi ca-Xanh như ngọc hình ảnh so sánh mới lạ, đầy sức gợi“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”-lá trúc gợi sự thanh mảnh, mềm mại-mặt chữ điền một khuôn mặt khoẻ mạnh, chất phát, thuần hậuSự hài hòa kín đáo giữa cảnh và người -> một nét đẹp kín đáo, thâm trầm rất huế2. Khổ 2Hình ảnh gió, mây chia lìa tan tácGióLối gió>khổ thơ với biện pháp nhân hoá không chỉ là cái buồn của cảnh mà còn là cáibuồn của lòng người“Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?”-Hình ảnh sông trăng dòng sông lấp lánh ánh trăng vàng Dòng sông của cõi mộng, cõi huyền ảo-Con thuyền chở trăng Con thuyền của mộng tưởng đang chở trăng về một nơi nào đó trong bộ khung cảnh khổ hai là một thế giới thực như ảo3. Khổ 3- Tâm trí của nhà thơ hoàn toàn chìm trong cõi mộng“Mơ khách đường xa khách đường xa” điệp ngữ “khách đường xa” nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ trước lời mời gọi của cô gái thôn Vĩ, mãichỉ là người khách xa xôi, người khách trong mơ mà thôi.“Áo em trắng quá nhìn không ra”Bóng người thấp thoáng, mờ ảo trong màu trắng của áo lẫn với màu trắng củasương khói mịt mờ.“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”Giữa cảnh và người có màn sương khói che ngăn, khiến cho người chỉ là cái bóngảnh nhạt nhoà tất cả đều mờ ảo giữa cảnh và người“Ai biết tình ai có đậm đà”Đại từ phiếm chỉ “ai” và câu hỏi tu từ -> hoài nghi, băn khoăn-Tình cảm của người xứ Huế phương xa kia có đậm đà không, hay cũng mờ ảo, dễ tan như màu sương khói-Cô gái Huế có biết được tình cảm nhớ thương đậm đà, da diết của nhà thơ?-Ý thơ thể hiện nỗi trống vắng, cô đơn trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời." Ai biết tình ai có đậm đà ? "Điệp từ “ai”Câu hỏi tu từChút hoài nghi băn khoănNgười xứ Huế có đậm đà ?=> Càng dâng lên nỗi cô đơn, trốngvắng, khao khát yêu thươngCâu hỏi tu từCó biết lòng nhà thơ?TỔNG KẾT1. Giá trị nghệ thuật- Hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm; ngôn ngữ trong sáng, tinh tế, giàu liên Âm điệu, nhịp điệu thơ tinh tế, thiết Hình ảnh thơ sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và Nghệ thuật liên tưởng, so sánh, nhân hóa, cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức dung- Bài thơ là một bức tranh toàn bích về cảnh vật và con người thôn Qua đó bộc lộ tình yêu đời, yêu người, niềm ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ.
HOÀN CẢNH SÁNG TÁC ĐÂY THÔN VĨ DẠ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc trong nghiệp văn chương ngắn ngủi của Hàn Mặc Tử. Bài thơ thành công không bởi những câu từ được đặt để tỉ mỉ, hình ảnh xứ Huế hiện ra thật đẹp mà còn vì câu chuyện tình đơn phương được khuất lấp. Mời bạn đọc cùng tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ. Hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ 1. Tác giả Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí 1912- 1940 là nhà thơ nổi tiếng khởi nguồn cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Vào khoảng đầu 1935, gia đình phát hiện những dấu hiệu bệnh phong trên cơ thể ông. Vì thành kiến sai lầm rằng đó là căn bệnh truyền nhiễm, các bệnh nhân bấy giờ vừa bất lực vì bệnh tật hành hạ, vừa đau đớn bởi xử xa lánh, hắt hủi và thậm chí là ngược đãi từ những người xung quanh. Gia đình Hàn Mặc Tử phải đưa ông trốn chạy khắp mọi nơi bởi tai mắt của chính quyền địa phương luôn trực chờ mang ông đi. Dẫu rằng nếu đưa ông vào nơi có điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa, ông sẽ không kết thúc cuộc đời của mình ở độ tuổi trẻ như thế. Cuộc đời tuy ngắn ngủi, đau thương nhưng thơ ông lại dồi dào, mạnh mẽ. Hàn Mặc Tử là một hồn thơ mãnh liệt, tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ở thơ ông, ta thấy từng câu, từng chữ như sự giằng xé, giao tranh để giành lại sinh mệnh với cuộc đời. Xem thêm Top 3 mở bài Đây thôn Vĩ Dạ Nghị luận văn học Đây thôn Vĩ Dạ 2. Hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ Chi tiết hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ “Đây thôn Vĩ Dạ” ban đầu có tên “ Ở đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938 in trong tập Thơ Điên sau đổi thành Đau Thương. “Đây thôn Vĩ Dạ” được cho là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại. Bài thơ là những cảm xúc ngổn ngang chất chứa trong lòng Hàn Mặc Tử từ mối tình đơn phương dành cho cô Hoàng Thị Kim Cúc. Cô là nàng thơ xứ Huế mà ông luôn đau đáu hướng về và cũng là mạch nguồn cảm hứng cho những sáng tác của ông. Trong thời gian làm việc tại sở Đạc Điền thuộc Quy Nhơn, ông đã phải làm nét đẹp thơ mộng, e lệ và rất đỗi duyên dáng của cô Hoàng Thị Kim Cúc. Nhưng sâu thẳm trong ông vẫn tồn tại những nhút nhát, e dè giăng mắc khắp tâm tưởng làm ông thật khó giãi bày. Ông chỉ lẳng lặng chôn kín tình cảm ấy vào sâu thẳm nơi trái tim, lẳng lặng để nó phai nhạt khi cô theo cha trở về thôn Vĩ Dạ Huế . Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh Một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử đã thay ông tâm tình hết nỗi lòng đến cô. Dưới sự gợi ý của người em ấy, cô đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm mấy lời nhắn nhủ. Xem thêm Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Khung cảnh thôn Vĩ Dạ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ Những lời ấy như vực dậy cõi lòng đã chết của nhà thơ trong lúc ông đang chiến đấu với căn bệnh phong. Lời thăm hỏi không ký tên nhưng bức ảnh và cả những con chữ kia đã thôi thúc chút nghị lực sống vốn từ lâu đã điêu tàn trong ông. Chúng kích thích trí tưởng tượng và gợi lại những nỗi niềm thầm kín vốn đã vùi chôn theo năm tháng. Theo Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ Hàn Mạc Tử cho biết “Năm 1938, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc..”. Bất luận nội dung của bức thư và cả những lời nhắn gửi của cô gái xứ Huế là gì, đó vẫn là khởi nguồn bất tận cho niềm cảm hứng sáng tác nên áng thơ Đây thôn Vĩ Dạ đầy nhân văn. Đấy còn là liều thuốc chữa lành cho những tâm bệnh trong ông những ngày tháng cuối đời. 3. Ý nghĩa tác phẩm Hoàn cảnh sáng tác của Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nhẹ nhàng nhất trong tập Thơ Điên bởi lúc bấy giờ, ông đang từng giây, từng khắc chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo. Trong thời kỳ bệnh tật đau đớn điên cuồng cả thể xác lẫn tâm hồn. Thơ ông như một tiếng thở dài mang đầy những gào thét uất hận, nghẹn ngào. Đây thôn Vĩ Dạ đang là một bức tranh xứ Huế nên thơ đến thế, trọn vẹn đến thế nhưng cuối cùng lại kết thúc bằng một sự tự vấn “ Ai biết tình ai có đậm đà”. Một cảm xúc hoài nghi len lỏi khắp câu thơ, như tiếng lòng thi sĩ đang tơ tưởng bóng hình giai nhân, cũng là một tiếng oán trách cuộc đời khi đã đặt một dấu chấm kết thúc khi ông đang ở độ tuổi còn quá tha thiết với đời. Xem thêm Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất Nghệ thuật bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất Trên đây là hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ. Qua hoàn cảnh sáng tác bài thơ, ta có thể thấu hiểu hơn về tác giả, dù trong thời kỳ gian khổ khi phải đấu tranh với bệnh tật thế nhưng không thể ảnh hưởng đến tinh thần, tâm hồn ông.
nghệ thuật bài thơ đây thôn vĩ dạ